Véc tơ từ thế là gì? Các công bố khoa học về Véc tơ từ thế

"Véc-tơ từ thế" (vector potential) là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực vật lý lý thuyết và điện từ học. Véc-tơ từ thế đại diện cho một trường từ mà có th...

"Véc-tơ từ thế" (vector potential) là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực vật lý lý thuyết và điện từ học. Véc-tơ từ thế đại diện cho một trường từ mà có thể sinh ra trường từ trong một không gian ba chiều. Nó giúp mô tả và tính toán các hiện tượng từ tính và sự tương tác giữa dòng điện và từ trường. Véc-tơ từ thế thường được ký hiệu là A và được tính toán từ trường từ (B) theo công thức A = ∇ × B, trong đó ∇ là toán tử nabla và × biểu thị phép tích vô hướng. Véc-tơ từ thế có thể được sử dụng để tính toán cả trường từ và trường điện trong các bài toán liên quan đến điện từ học và từ tính học.
Véc-tơ từ thế (vector potential) là một khái niệm quan trọng trong lĩnh vực điện từ học và vật lý lý thuyết, được sử dụng để mô tả và tính toán các hiện tượng từ tính và tương tác giữa dòng điện và từ trường.

Trong lý thuyết điện từ, trường từ (magnetic field) được biểu diễn bằng véc-tơ từ trường B. Véc-tơ từ thế A là một véc-tơ, và nó có thể được tính toán từ trường từ B bằng cách lấy phần tạo thành xoay của B theo phép toán gradient (toán tử nabla) và phép toán tích vô hướng. Công thức để tính véc-tơ từ thế A từ trường từ B là A = ∇ × B, trong đó ∇ là toán tử nabla và × biểu thị phép tích vô hướng.

Véc-tơ từ thế không phải là một trường vốn định nghĩa độc lập, mà chỉ định hướng và cảm quan. Tuy nhiên, khi sử dụng véc-tơ từ thế A, ta có thể tính được trường từ B và cũng có thể tính toán trường điện E trong trường hợp dòng điện và từ trường biết trước. Điều này rất hữu ích trong việc giải các bài toán có liên quan đến điện từ học và từ tính học.

Việc sử dụng véc-tơ từ thế giúp giải quyết vấn đề "ngược" trong lý thuyết điện từ. Trong trường hợp trường từ B đã được biết trước, ta có thể tính toán véc-tơ từ thế A và sử dụng nó để tính toán trường điện E và dòng điện J (dòng điện sinh ra từ tương tác giữa dòng điện và từ trường). Véc-tơ từ thế A cũng cung cấp thông tin quan trọng về vết từ và sự tương tác giữa các dòng điện trong không gian ba chiều.

Tổng quát, véc-tơ từ thế là một công cụ toán học quan trọng trong lý thuyết điện từ và được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như điện tử, vật lý hạt nhân, cơ học lượng tử và nhiều ứng dụng công nghệ khác.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "véc tơ từ thế":

Lý Thuyết Cơ Bản Của Phương Pháp Điện-Lừu-Từ Trong Khảo Sát Địa Vật Lý Dịch bởi AI
Geophysics - Tập 18 Số 3 - Trang 605-635 - 1953

Từ Định luật Ampere (với một trái đất đồng nhất) và từ phương trình Maxwell sử dụng khái niệm vectơ Hertz (cho một trái đất nhiều tầng), các giải pháp được tìm ra cho các thành phần ngang của trường điện và từ tại bề mặt do dòng điện đất (telluric currents) trong lòng đất. Tỷ lệ của các thành phần ngang này, cùng với pha tương đối của chúng, là chỉ báo về cấu trúc và điện trở suất thực của các lớp dưới mặt đất. Tỷ lệ của một số cặp yếu tố điện từ khác cũng có tính chỉ báo tương tự. Thông thường, một bảng đo quang điện-lừu từ được thể hiện bằng những đường cong điện trở suất biểu kiến và sự khác biệt pha tại một trạm cụ thể, được vẽ dưới dạng hàm của chu kỳ của các thành phần dòng điện đất khác nhau. Các công thức cụ thể được xây dựng cho điện trở suất, độ sâu tới các mặt phân cách, v.v. trong cả bài toán hai và ba lớp. Đối với hai vùng có hình dạng tương tự và điện trở suất tương ứng của chúng chỉ khác nhau bởi một hệ số tuyến tính, các mối quan hệ về pha là giống nhau và các điện trở suất biểu kiến khác nhau bởi cùng một hằng số tỷ lệ mà liên hệ với các điện trở suất thực tương ứng. Nguyên tắc "tính tương tự" này đơn giản hóa đáng kể việc biểu diễn một bộ đường cong chủ, như đã được đưa ra để sử dụng trong việc giải thích địa chất. Ngoài các lợi thế thông thường mang lại bởi việc sử dụng dòng điện đất (không cần các nguồn dòng điện hoặc cáp dài, độ sâu khảo sát lớn hơn, v.v.), phương pháp điện-lừu-từ trong thăm dò địa chất giải quyết các hiệu ứng của từng lớp đất tốt hơn so với các phương pháp điện trở thông thường. Nó dường như là một công cụ lý tưởng để điều tra ban đầu các lưu vực trầm tích lớn có tiềm năng dự trữ dầu mỏ.

#phương pháp điện-lừu-từ #định luật Ampere #phương trình Maxwell #vectơ Hertz #dòng điện đất #điện từ #điện trở suất #điều tra địa chất #lưu vực trầm tích #dầu mỏ
Forced and mixed convection heat transfer to supercritical CO2 vertically flowing in a uniformly-heated circular tube
Experimental Thermal and Fluid Science - Tập 34 Số 8 - Trang 1295-1308 - 2010
Venezuelan equine encephalitis emergence: Enhanced vector infection from a single amino acid substitution in the envelope glycoprotein
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 101 Số 31 - Trang 11344-11349 - 2004

In 1993 and 1996, subtype IE Venezuelan equine encephalitis (VEE) virus caused epizootics in the Mexican states of Chiapas and Oaxaca. Previously, only subtype IAB and IC VEE virus strains had been associated with major outbreaks of equine and human disease. The IAB and IC epizootics are believed to emerge via adaptation of enzootic (sylvatic, equine-avirulent) strains for high titer equine viremia that results in efficient infection of mosquito vectors. However, experimental equine infections with subtype IE equine isolates from the Mexican outbreaks demonstrated neuro-virulence but little viremia, inconsistent with typical VEE emergence mechanisms. Therefore, we hypothesized that changes in the mosquito vector host range might have contributed to the Mexican emergence. To test this hypothesis, we evaluated the susceptibility of the most abundant mosquito in the deforested Pacific coastal locations of the VEE outbreaks and a proven epizootic vector, Ochlerotatus taeniorhynchus . The Mexican epizootic equine isolates exhibited significantly greater infectivity compared with closely related enzootic strains, supporting the hypothesis that adaptation to an efficient epizootic vector contributed to disease emergence. Reverse genetic studies implicated a Ser → Asn substitution in the E2 envelope glycoprotein as the major determinant of the increased vector infectivity phenotype. Our findings underscore the capacity of RNA viruses to alter their vector host range through minor genetic changes, resulting in the potential for disease emergence.

Egocentric boundary vector tuning of the retrosplenial cortex
Science advances - Tập 6 Số 8 - 2020

Retrosplenial cortex neurons encode the positions of environmental boundaries in coordinates relative to the animal itself.

Năng lực truyền bệnh của các loài Culicoides ở Nam Phi đối với virus bệnh xanh lưỡi serotype 1 (BTV‐1) với sự chú ý đặc biệt đến tác động của nhiệt độ lên tỷ lệ tái bản virus trong C. imicolaC. bolitinos Dịch bởi AI
Medical and Veterinary Entomology - Tập 16 Số 1 - Trang 10-21 - 2002

Tóm tắt. Nghiên cứu này báo cáo về độ nhạy cảm miệng của 22 loài Culicoides liên quan đến chăn nuôi ở Nam Phi đối với nhiễm virus bệnh xanh lưỡi serotype 1 (BTV‐1) và tỷ lệ tái bản của nó trong C. imicola Kieffer và C. bolitinos Meiswinkel (Diptera: Ceratopogonidae) trong một loạt các khoảng thời gian ủ bệnh và nhiệt độ khác nhau. Các mẫu Culicoides thu thập từ thực địa đã được nuôi bằng máu cừu chứa 7.5 log10TCID50/mL của BTV‐1, và sau đó được duy trì ở các nhiệt độ khác nhau. Sự tái bản virus được đo theo thời gian bằng cách thí nghiệm từng con ruồi trong các tế bào BHK‐21 sử dụng quy trình vi phân. Bất kể nhiệt độ ủ (10, 15, 18, 23.5 và 30°C), tỷ lệ virus trung bình/midge, tỷ lệ nhiễm (IR) và tỷ lệ nữ bị nhiễm có tiềm năng truyền virus (TP = tỷ lệ virus/midge ≥ 3 log10 TCID50) cho thấy có sự khác biệt đáng kể, cao hơn ở C. bolitinos so với C. imicola. Kết quả từ ngày 4–10 sau khi nhiễm (dpi), ở nhiệt độ 15–30°C, cho thấy tỷ lệ IR và TP trung bình trong C. bolitinos dao động từ 36.7 đến 87.8%, và từ 8.4 đến 87.7%, tương ứng; trong C. imicola, các giá trị tương ứng là 11.0–13.7% và 0–46.8%. Cả hai loài đều có tỷ lệ IR cao nhất ghi nhận ở 25°C và TP cao nhất ở 30°C. Thời gian cần thiết để phát triển TP trong C. bolitinos dao động từ 2 dpi ở 25°C đến 8 dpi ở 15°C. Trong C. imicola, thời gian này dao động từ 4 dpi ở 30°C đến 10 dpi ở 23.5°C; không phát hiện được cá thể nào có TP ở 15°C. Không có bằng chứng về sự tái bản virus ở các con ruồi ở 10°C. Khi, ở các thời điểm khác nhau của quá trình ủ bệnh, từng con ruồi được chuyển từ 10°C đến 23.5°C và sau đó được thử nghiệm 4–10 ngày sau đó, virus đã được phục hồi từ cả hai loài. Tỷ lệ virus trung bình/midge và tỷ lệ cá thể có TP và IR, cũng lại cao hơn có ý nghĩa ở C. bolitinos so với C. imicola. Ngoài ra, tỷ lệ nhiễm bệnh ở C. magnus Colaço cũng cao hơn ở C. imicola. Tỷ lệ nhiễm thấp được ghi nhận ở C. bedfordi Ingram & Macfie, C. leucostictus Kieffer, C. pycnostictus Ingram & Macfie, C. gulbenkiani Caeiro và C. milnei Austen. BTV‐1 không được phát hiện ở 14 loài Culicoides khác được thử nghiệm; tuy nhiên, một số trong chúng đã được thử nghiệm với số lượng hạn chế. Nghiên cứu hiện tại chỉ ra khả năng truyền bệnh đa vector cho BTV ở Nam Phi. Trong C. imicolaC. bolitinos, tỷ lệ tái bản có sự khác biệt và bị ảnh hưởng đáng kể bởi nhiệt độ. Những phát hiện này sẽ được thảo luận trong mối liên hệ với dịch tễ học của bệnh xanh lưỡi ở Nam Phi.

Bioactive glasses as potential radioisotope vectors for in situ cancer therapy: investigating the structural effects of yttrium
Physical Chemistry Chemical Physics - Tập 13 Số 39 - Trang 17749 - 2011
Search for heavy resonances decaying to WW, WZ, or WH boson pairs in the lepton plus merged jet final state in proton-proton collisions at $\sqrt{s}$ = 13 TeV
Phys.Rev.D - Tập 105 Số 3 - Trang 032008 - 2022
A search for new heavy resonances decaying to pairs of bosons (WW, WZ, or WH) is presented. The analysis uses data from proton-proton collisions collected with the CMS detector at a center-of-mass energy of 13 TeV, corresponding to an integrated luminosity of 137fb-1. One of the bosons is required to be a W boson decaying to an electron or muon and a neutrino, while the other boson is required to be reconstructed as a single jet with mass and substructure compatible with a quark pair from a W, Z, or Higgs boson decay. The search is performed in the resonance mass range between 1.0 and 4.5 TeV and includes a specific search for resonances produced via vector boson fusion. The signal is extracted using a two-dimensional maximum likelihood fit to the jet mass and the diboson invariant mass distributions. No significant excess is observed above the estimated background. Model-independent upper limits on the production cross sections of spin-0, spin-1, and spin-2 heavy resonances are derived as functions of the resonance mass and are interpreted in the context of bulk radion, heavy vector triplet, and bulk graviton models. The reported bounds are the most stringent to date.
#p p: colliding beams;resonance: production;resonance: heavy;resonance: mass;resonance: decay modes;spin: resonance;spin: 0;spin: 1;spin: 2;p p: scattering;Higgs particle: decay;gravitation: model;dimension: 2;vector boson: fusion;jet: mass;model: graviton;muon;triplet;final state: ((n)jet lepton);electron;background;mass spectrum: (W+ W-);mass spectrum: (W Z0);mass spectrum: (W Higgs particle);radion;CMS;CERN LHC Coll;structure;channel cross section: upper limit;mass dependence;experimental results;13000 GeV-cms
Tổng số: 372   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10